Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

Lời ai Điếu

   

18-5-2016
Ảnh bìa sách
Ảnh bìa sách
LỜI NÓI ĐẦU
Có lần, bác sỹ Nguyễn Khắc Viện bảo tôi:
– Nhiều người khuyên Nguyễn Khắc Viện nên viết hồi ký. Nhưng tôi nghĩ, mình chưa một lần bị đi tù. Chưa một lần cầm súng ra trận thì có gì để mà viết hồi ký…
Cứ như lời ông Viện thì đời tôi, không đáng một xu, vậy có gì để mà viết hồi ký, hồi ức cho thiên hạ cười chê (!)
Nhưng bạn bè nhiều người lại khuyên Lê Phú Khải nên viết một cuốn hồi ký, không thì phí đi (!)
Chả là, trong lúc vui vẻ, tôi thường kể cho bạn hữu nghe những chuyện “cười ra nước mắt” của dòng họ tôi, hoặc những nhân vật mà suốt cuộc đời 40 năm làm báo tôi được tiếp cận, làm việc. Toàn là những “nhân vật lịch sử”, những chuyện đáng ghi lại. Mà những nhân vật đó lại không thích hoặc không có điều kiện để ghi lại. Bạn bè khuyên tôi nên viết lại những chuyện mà tôi biết…
Chẳng hạn, như chuyện ông nội tôi làm vaguemestre (nhân viên bưu chính) cho Toàn quyền Đông Dương như thế nào? Ông nội tôi theo Toàn quyền Maurice Long và vua Khải Định đi hội chợ Marseille năm 1922 và phiên dịch cho Khải Định trong chuyến đi ấy như thế nào? Hay là, chuyện chú tôi, tướng Lê Hữu Qua (Lê Phú Cường) có thời gian lái xe và làm garde-corps cho cụ Hồ những năm đầu Cách mạng Tháng Tám như thế nào? Hoặc, một người chú khác của tôi là nhà báo Lê Phú Hào làm phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ và Kissingertại hội đàm Paris như thế nào? Hoặc chính tôi, từng tháp tùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong những chuyến đi công cán tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sau này, ông Kiệt thường kêu tôi đến nhà riêng khi ông đã thôi làm Thủ tướng, để nói chuyện, tạm gọi là “tâm sự” như thế nào? Hoặc chân dung những nhà đấu tranh dân chủ mà tôi có dịp tiếp kiến, giao du như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sỹ Phu…
Những truyện trên không ai hay cả, nhưng là “những tư liệu quý” như bạn bè tôi nói, cần cho hậu thế đọc và suy nghĩ về một thời kỳ đáng nhớ của đất nước tươi đẹp nhưng đau khổ này! Bạn tôi, toàn những người khó tính, vậy mà họ lại thích thú nghe thì có lẽ cũng nên ghi lại thật. Và cũng chỉ người “quen tay” cầm bút mới đủ kiên nhẫn để ghi lại những trang viết này trong lúc thiên hạ đua nhau đi kiếm tiền bằng đủ mọi cách, kể cả các nhà văn chửi bới nhau để tranh một cái giải thưởng… vài trăm triệu lúc này! (5/2012)
Tôi thử kể một đoạn “hồi ký” dưới đây để bạn đọc yêu mến của tôi coi có được không? Bằng không thì hãy vứt ngay cuốn hồi ký này vào sọt rác…để khỏi rác nhà!
(…Trích)
… Tôi nhớ, vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, khi tổng bí thư (TBT) Lê Duẩn vô thăm tỉnh Tiền Giang. Ban thường vụ tỉnh ủy lúc đó đứng đầu là bí thư tỉnh ủy Chín Hải (tức Lê Văn Phẩm), và chủ tịch tỉnh Sáu Bình (Nguyễn Công Bình) dẫn TBT Lê Duẩn vô thăm vùng Đồng Tháp Mười thuộc địa phận Tiền Giang (90.000 ha). Đứng trước cánh đồng bao la bát ngát của vùng Đồng Tháp Mười, TBT Lê Duẩn chỉ tay về cánh đồng trước mặt, hỏi:
– Trồng những cây gì thế kia?
Bí thư tỉnh ủy Chín Hải lễ phép trả lời:
-Thưa tổng bí thư, đó là rừng tràm ạ. Bỗng mọi người sửng sốt khi nghe TBT quát:
-Ngu! Ngu! Sao không trồng lúa!!!
Trước cơn giận dữ của TBT vì sao tỉnh lại không trồng lúa ở Đồng Tháp Mười mà lại trồng tràm… thì mọi người chỉ còn biết chết lặng mà thôi. Ai dám cãi lại? Ai dám cả gan giải thích cho đồng chí TBT rằng, đất Đồng Tháp Mười là đất phèn nặng, chỉ trồng tràm là hợp nhất mà thôi. Từ lúc TBT quát tháo như thế, không khí của đoàn trầm lặng. Hầu như không ai nói gì cả. Khi TBT Lê Duẩn đi rồi, tôi nghe rõ tiếng than của bí thư tỉnh ủy Chín Hải:
-Ông Ba (tức Lê Duẩn) quay cờ rồi(!)
… Tướng Lê Hữu Qua là một người cương trực, mỗi lần tôi có việc gia đình phải lên Bộ Công An gặp ông, nhằm lúc ông vui vẻ, thường được ông kể cho nghe về những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, mà theo lời ông, lúc đó tình thế cách mạng “nghìn cân treo sợi tóc”!
Ở Bộ Công An, tướng Qua là người ghét cay ghét đắng thứ trưởng Lê Quốc Thân. Theo ông, đây là một phần tử hèn nhát, cơ hội và gian manh. Chính ông Vũ Quốc Uy, nguyên phó chủ nhiệm Ủy ban văn hóa đối ngoại của Việt Nam cũng từng nói với tôi về sự hèn nhát của Lê Quốc Thân mà ông được chứng kiến khi Pháp tấn công quân ta đang cố thủ trong nhà hát lớn Hải Phòng hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông Uy kể: “Khi tất cả anh em tự vệ đang quyết chiến đấu với Pháp thì Lê Quốc Thân ngồi khóc và sợ quá… đái cả ra quần!” Vậy mà sau này ông ta leo lên đến chức ủy viên trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Công An.
Tướng Qua kể, lúc trúng ủy viên trung ương, thứ trưởng Lê Quốc Thân mỗi lần đến cục tôi làm việc (tức Cục Cảnh sát, Cục Trại giam mà tướng Qua từng làm cục trưởng) thường hoa chân múa tay nói huyên thuyên như “quan điểm” của tôi thế này, “quan điểm” của tôi thế kia… Lúc ấy, tôi nóng mắt lắm. Một hôm không chịu nổi nữa nhưng vẫn giữ sĩ diện cho “đồng chí thứ trưởng” nên lúc tan cuộc họp rồi, mọi người đã giải tán, chỉ còn tôi và thứ trưởng Thân do tôi mời lại. Tôi nói thẳng với ông ta: “Ngày còn ở An toàn khu khi thằng Đỗ Nhuận nó mới sáng tác được bài “Du kích sông Thao”, tối đến nó tập hợp anh em lại để hát thử. Khi nó xướng lên… “Hồng Hà”… thì mọi người ở dưới đều đồng thanh… “mênh mông”… Lúc đó anh chỉ bốc ngô rang ăn, đến nỗi thằng Đỗ Nhuận phải chỉ vào mặt anh nói Lê Quốc Thân “mênh mông” đi chứ, cứ bốc ngô mà ăn mãi thế!!! Chắc anh còn nhớ chuyện đó chứ…? Cái lúc anh bốc ngô rang trong chiến khu sao tôi không thấy anh có “quan điểm” gì… sao bây giờ mới được vô trung ương, anh lắm “quan điểm” thế! Lê Quốc Thân đỏ mặt rồi quay ngoắt đi thẳng. Từ đó y không bao giờ đến Cục tôi để nêu “quan điểm” nữa(!)”.
Tướng Qua là như thế. Tính nóng nẩy, cương trực, nên hay làm mất lòng cấp trên mặc dù công trạng đầy mình. Ông từng phá “Vụ án phố Ôn Như Hầu” nổi tiếng, cứu chế độ cộng hòa non trẻ sau CM Tháng Tám thoát hiểm trong gang tấc. Vậy mà sau này, từ chức vụ Cục trưởng Cục cảnh sát ông phải miễn cưỡng nhận chức Cục trưởng Cục lao cải – tức cục quản lý các trại giam, một chức vụ bị “cách ly” với các vấn đề an ninh ngoài xã hội, không còn liên quan đến toàn bộ hệ thống pháp luật, đến sự minh bạch, công tâm, trách nhiệm cao, thâm niên nghiệp vụ cao của người đứng đầu ngành cảnh sát quốc gia như chức vụ cũ của ông. Vậy mà cũng không yên. Tướng Qua kể khi ông Phạm Hùng làm phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Công An, một lần ông đến Cục trại giam và ra lệnh cho tôi thả một nữ tù nhân đang mang án chung thân. Tôi thưa với đồng chí Bộ trưởng, đây là chuyện pháp luật, tôi không dám. Ông Phạm Hùng nói “pháp luật do ta làm ra chớ(!)”. Tôi đành thưa, xin phép để cho tôi họp Đảng ủy Cục, xin ý kiến Đảng ủy. Ông Phạm Hùng trừng mắt hỏi “đồng chí bao nhiêu tuổi?” Tôi biết không xong rồi, và sau giây phút suy nghĩ , tôi đã trả lời một cách kiên quyết, chấp nhận mọi hậu họa “tôi ít tuổi hơn đồng chí”! Thế là hơn tháng sau, tôi nhận được quyết định nghỉ hưu (!)
Ông Phạm Hùng từng là một người anh hùng như tôi đã biết. Ông từng bị thực dân Pháp kết án tử hình. Trong khám tử hình, ông tỏ ra vô cùng anh dũng, được kính nể. Vậy mà khi có quyền lực không giới hạn thì tha hóa như thế. Đó là con đường của tất cả các lãnh tụ trong một chế độ toàn trị, mà trường hợp Phạm Hùng chỉ là một ví dụ nhỏ. Cả dòng họ Lê Phú của tôi, chỉ có mình tôi là được biết về lý do bị cho nghỉ hưu đột ngột của tướng Qua, vì ông chỉ kể cho có một mình tôi nghe trong một chiều “gió tím mưa xanh”.
Cuốn sách này là những mẩu chuyện như thế!
_____
22-5-2016
CHƯƠNG I
(Trích một đoạn)
… Nói về Hà Nội những năm 50 đầu thế kỷ trước. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đến giai đoạn này đã chuyển sang thế phòng ngự và tấn công. Quân đội viễn chinh Pháp bắt đầu thua liểng xiểng. Người Hà Nội chứng kiến cảnh binh lính Pháp sau những ngày thua trận ở các nơi về Hà Nội với vẻ chán trường, râu tóc bơ phờ và… sống gấp. Các bar rượu, vũ trường, đèn xanh đỏ lập lỏe, nhốn nháo thâu đêm. Cũng nhờ đám viễn chinh này ăn chơi xả láng mà nhiều người cũng kiếm chác được nhờ phục vụ chúng. Có chị bán thuốc lá trước một rạp chiếu bóng kể bán thuốc cho tây một lãi mười. Khi một thằng tây mua gói thuốc, nó đưa tiền chẵn, khi trả lại tiền (miền Nam gọi là thối tiền), đáng phải trả lại mười thì chỉ trả lại một. Nó chẳng đếm lại bao giờ, đút tiền vào túi đi ngay. Nếu thấy nó đếm lại thì… cầm tiền đưa thêm, coi như chưa đưa hết!
Dạo ấy, cứ mỗi lần nghe thấy tiếng máy bay trực thăng trên đầu là lũ trẻ chúng tôi ở các phố Hàm Long, Lò Đúc, Lê Văn Hưu… chạy bán sống bán chết ra vườn hoa Pasteur. Ở đó có một bãi đất rộng cho trực thăng hạ cánh. Chúng tô nhìn thấy từ trên trực thăng các thương binh da trắng, da đen được khiêng xuống để đưa về nhà thương Đồn Thủy (nay là bệnh viện 108) để cứu chữa. Khi trện Điện Biên Phủ xẩy ra thì ở Hà Nội thật nhộn nhạo. Tin tức đồn đại khắp nơi. Báo bán chạy như tôm tươi. Hầu hết các gia đình trung lưu ở Hà Nội lúc đó đều mua báo hàng ngày để theo dõi tin tức chiến trường. Người ta lo âu, thì thầm vì biết thế nào Pháp cũng thua, Việt Minh sẽ thắng. Người có gia đình theo kháng chiến thì vui mừng, hồi hộp. Một hôm, ông bác ruột, anh mẹ tôi từ phố Hàng Buồm đến chơi, đưa tờ báo cho mẹ tôi coi rồi chỉ tay vào một tấm hình lớn ngay trang nhất và nói: “Em chồng cô bây giờ làm lớn lắm!” Thì ra đó là tấm hình chụp ông Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn đại biểu VNDCCH tại hội nghị Geneve về Đông Dương 1954. Đứng cạnh trưởng đoàn Phạm Văn Đồng là chú tôi, Lê Phú Cường (tức tướng Lê Hữu Qua sau này). Sau này tôi mới biết là chú Hai tôi là nhân viên an ninh của phái đoàn Việt Nam tại Geneva, có nhiệm vụ bảo vệ đoàn và trưởng đoàn. Đây là lý do chú tôi thường hay xuất hiện bên cạnh ông Phạm Văn Đồng. Vì thế mọi người cứ tưởng chú tôi làm lớn lắm. Lúc đó mới 12 tuổi đầu, tôi không hình dung ra cái gì sẽ đến với gia đình tôi và Hà Nội. Thế nhưng, cái gì đến đã đến. Ngày 10/10/1954, ngày giả phóng thủ đô thật đáng ghi nhớ. Mẹ tôi là một người buôn bán rất nhạy cảm nên trước đó bà mua tích trữ nhiều cán cờ bằng gỗ, bằng tre xếp đầy nhà. Ngày đó tung ra bán cho người ta làm cán cờ vẫy chào bộ đội về giải phóng thủ đô.
Tôi còn nhớ như in đêm mùng 9 rạng sáng 10/10 ấy cả thành phố giới nghiêm và không ai ngủ cả. Mấy chị em tôi dán mắt nhìn qua khe cửa. Trong ánh sáng vàng đục của những ngọn đèn đêm, tôi thấy những tên lính Pháp cao lớn đi tuần. Gần sáng, lính Pháp chốt lại các đầu phố. Nhà tôi ở số 3B phố Hàm Long, tức đầu phố nhìn ra ngã năm Phan Chu Trinh, Hàm Long, Lê Văn Hưu, Lò Đúc, Hàn Thuyên rõ mồn một. Lính Pháp tụ lại ở đầu phố. Khi trời sáng hẳn thì từng tốp bộ đội của ta vai đeo súng từ từ tiến đến chỗ lính Pháp. Những tên lính Tây cao lêu nghêu đứng cạnh bộ đội Việt Minh bé nhỏ chỉ cao đến vai chúng. Họ trao đổi với nhau, bàn giao với nhau những điều gì đó rồi thấy lính Pháp từ từ rút lên phía nhà hát lớn theo đường Phan Chu Trinh. Khi lính Pháp rút rồi, chỉ còn lại bộ đội ta thì tất cả các cánh của bật tung, nhân dân hai bên phố ùa ra đường với cờ đỏ trong tay reo mừng hoan hô các anh bộ đội. (Dĩ nhiên các cán cờ là của mẹ tôi bán cho họ). Nếu tôi không ghi lại cái sự việc có thật này về cái đêm mùng 9/10 năm đó, thì sau này các sử gia, các nhà tiểu thuyết lịch sử khó hình dung người Hà Nội làm gì, nghĩ gì, đường phố Hà Nội diễn ra điều gì trong cái giờ phút lịch sử đó. Bởi lẽ, những người Hà Nội chứng kiến lúc quân Pháp rút lui lúc rạng sáng ngày hôm đó chắc không còn mấy người và cũng chẳng ai làm cái việc lẩn thẩn là ngồi ghi chép lại những sự việc đó trong khi mọi người đang điên rồ kiếm tiền, cố tồn tại trong cái nền kinh tế thị trường định hướng XHCN này! Cũng cần phải nói thêm là, trước ngày 10/10/1954 cả mấy tháng, đã có các cán bộ Việt Minh vào thành phố, tá túc trong các nhà dân vốn là cơ sở của Việt Minh hay các gia đình có người đi kháng chiến. Nhà tôi cũng có một chị tên là Nhân đến ở. Họ có nhiệm vụ giải thích chính sách của chính phủ kháng chiến, khuyên đồng bào không theo Pháp đi Hải Phòng…
Chị Nhân có chồng là cán bộ hoạt động nội thành rất đẹp trai tên là Hồng Kỳ. Mẹ tô đã xếp cho họ ở một căn buồng nhỏ sau bếp nhà và đứa con đầu lòng của họ đã “nên người” ở căn buồng đó. Sau này họ vẫn đi lại thăm gia đình tôi.
Lại nói về ngày 10/10 lịch sử, cho đến 10 h sáng hôm đó thì cả Hà Nội là một ngày hội lớn. Năm cửa ô Hà Nội tưng bừng đón những đoàn quân chiến thắng trở về. Các nghệ sỹ đem cả đàn ra kéo, các chị mặc áo dài, các bà nhà giàu tung hoa tươi lên các đoàn xe trở các đoàn quân tiến vào thành phố. Có những câu chuyện thật cảm động mà tôi biết. Bà cụ Lý Tiếp, người làng Đồng Nhân, quê ngoại của tôi. Cụ có họ xa với mẹ tôi. Cụ sinh sống bằng nghề bán nước mắm rong trên đường phố. Hôm đó có người bảo với bà rằng, con bà là cán bộ chỉ huy cao cấp trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nếu tôi nhớ không nhầm là đại đoàn trưởng hay trung đoàn trưởng gì đó… có người làng đã trông thấy con trai bà trên phim tài liệu về Điện Biên khi còn ở vùng tự do. Người cán bộ vô thành kiểu như chị Nhân tôi kể ở trên đã cho bà biết tin như thế. Nhưng bà cụ không tin nên sáng ngày 10/10 bà vẫn đi bán nước mắm. Khi đoàn quân tiến vào thủ đô, bà cụ Tiếp vẫn đòn gánh trên vai chen vào đoàn người đứng hai bên đường tại một cửa ô. Bỗng nhiên bà trông thấy con trai mình ngồi trên xe jeep dẫn đầu đoàn quân. Bà lao ra… hai mẹ con đã ôm lấy nhau… và mọi người đều khóc. Người chỉ huy đó sau này là thiếu tướng Vũ Yên. Tên cúng cơm của ông là Nguyễn Văn Tịch. Mẹ tôi nói ông là người làng của bà. Khi viết những dòng này, tôi cũng cảm động rơi nước mắt khi ngòi bút “chạy” tới đây. Lịch sử đất nước có những giờ phút đáng ghi nhớ như thế. Nhưng, người ta có hay đâu những người hồ hởi mang hoa ném lên những đoàn xe trở đoàn quân chiến thắng kia, chỉ ít lâu sau là nạn nhân của những cuộc cải tạo tư sản. Ở nông thôn là cải cách ruộng đất đẫm máu.
“Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc “đấu tranh giai cấp”, của cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm”. Nhà văn Nguyễn Khải đã miêu tả rất đúng chân dung của con người Việt Nam từ thành thị đến nông thôn sau chiến thắng Điện Biên trong bài tùy bút chính trị “ Đi tìm cái tôi đã mất”. Ông viết: “Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn. Từ nay họ chỉ được nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối nếu họ không muốn dẫm vào vết chân của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng lom rom như một kẻ bại trận”. Viết đến đây tôi chợt nhớ có lần đọc được bài viết của một phóng viên người Pháp nhiều năm sống ở Trung Quốc. Khi quân giải phóng nhân dân Trung Hoa vượt sông Trường Giang đuổi quân Tưởng Giới Thạch khỏi lục địa, thu Trung Quốc về một mối, tác giả đã từ Hồng Kông qua lục địa và chứng kiến cảnh nhân dân vui mừng chào đón một tương lai tốt đẹp như thế nào. Sau đó tác giả hạ một câu, đại ý, nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc không tiếp tục công cuộc “đấu tranh giai cấp” sau đó thì nước Trung Hoa đã không khốn nạn như ngày nay.
Việt Nam chẳng khác gì Trung Quốc, hay nói cách khác là giống nhau như hai giọt nước. “Đấu tranh giai cấp” đã tàn phá tất cả những gì tốt đẹp mà nhân dân Việt Nam đã đổ xương máu để giành được cho đến ngày chiến thắng Điện Biên Phủ.
Cải cách ruộng đất đã đưa những ông bà nông dân mắt toét răng đen không biết chữ lên làm chánh án những “tòa án nhân dân”, có quyền phán quyết án tử hình và nạn nhân bị đem bắn ngay sau đó. Những thước phim tư liệu do chính quyền quay mà tôi đã được xem, mỗi lần nhớ đến vẫn khiến tôi lạnh xương sống. Tên địa chủ được lôi ra đấu tố, ra xét xử đi giữa hai du kích đi chân đất và cầm súng chĩa vào mình.Và, tên địa chủ ấy cứ run cầm cập khi nhìn thấy cái cọc tre đã được đóng sẵn để lát nữa trói mình vào đó để xử bắn! Chưa cần xử, nạn nhân đã biết trước hình phạt dành cho mình. Xem những thước phim cho thấy, chỉ sau vài loạt hô đả đảo của quần chúng đang điên rồ trong cơn phấn kích là “phạm nhân” đã bị trói nghiến vào cái cột tre, rồi sau loạt súng nổ, người ta bu lại để xem tên “phạm nhân” nghẹo cổ. Đạn xuyên thẳng vào tim. Cả xã hội miền Bắc đã lên cơn nhập đồng cuồng điên trong cuộc đấu tố bắn giết kéo dài đó. Thật khó có thể giải thích những người nông dân nghèo khổ, hiền lành, nhẫn nhục, sống với nhau bao đời trong các làng quê được bao bọc bởi những lũy tre xanh hiền hòa kia… bỗng có ngày họ bị Đảng Cộng sản cho uống thuốc kích độc, kích ác, kích bạo, kích tham… những độc dược dán mác “đấu tranh giai cấp” hay “Mác-Lenin”… để một chị con gái có thể nhẩy chồm lên chỉ vào mặt bố đẻ của mình mà hét: Thằng kia, mày có biết tao là ai không? Và người cha đẻ của chị khúm núm run rẩy thưa: Thưa bà, bà là con của con ạ!!!
Ở Đồ Sơn quê vợ tôi có câu chuyện thương tâm thế này. Một phú nông trong làng, từng chứa chấp Việt Minh hoạt động. Một hôm, có 5-6 cán bộ đang họp trong nhà thì có tin Tây đến vây bố. Chủ nhà nhanh trí hô tất cả trèo lên mái nhà rỡ mái xuống (xem như đang sửa nhà). Thấy cảnh nhà cửa ngổn ngang, mái nhà bị rỡ tung, chúng tin là nhà đang sửa nên có đông thợ đến làm liền rút lui. Thế nhưng, thật trớ trêu ông chủ nhà sau này bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, bị bức cung ông phẫn uất quá cho gọi tất cả các con cái về nhà, dồn vào một buồng rồi tưới xăng để tự thiêu. Chị con gái đã có chồng, có con, quỳ lạy cha xin tha chết để còn sống nuôi con. Nghĩ thương cháu, người ông tha cho con gái sau đó châm lửa thiêu cả nhà. Khi mọi người biết chuyện chạy đến thì những đứa trẻ đã chết đen thui còn xác người vợ trương phồng lên như con bò! Cuộc cách mạng cải cách ruộng đất(CCRĐ) “long trời lở đất” ở miền Bắc lúc đó đã xử bắn hàng chục ngàn người, đa phần là những người có công với kháng chiến, những phần tử ưu tú nhất ở nông thôn Việt Nam.
H1Bà Nguyễn Thị Phương mẹ của tác giả
Cuộc CCRĐ, cải tạo tư sản ở miền Bắc đã triệt tiêu những người lao động có năng lực nhất ở cả nông thân lẫn thành thị. Những người có tay nghề cao, có kinh nghiệm quản lý, biết tổ chức sản xuất và kinh doanh. Gia sản của họ bị trưng thu, trưng mua, tịch thu kiểu ăn cướp còn bản thân họ thì bị bắn chết trong CCRĐ, bị bạc đãi ở thành thị. Xã hội ngày ấy bị kéo lùi lại thời trung cổ! Có nhà thơ của nhóm Nhân văn đã khái quát:
“ Tôi đi không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ”
Vậy mà sau chiến thắng 1975, miền Nam lại bị cải tạo tư sản. Một ông chủ xe đò (xe chở khách) ở Mỹ Tho nói với tôi: Khi các ông Việt cộng đến nhà tịch thu mấy cái xe đò của tôi để đưa vô công tư hợp doanh… thì tôi đã biết là các ông ấy sẽ thất bại rồi. Tôi hỏi ông chủ nọ: Vì sao bác biết trước là sẽ thất bại? Ông trả lời: Họ chỉ lấy đi cái xe, còn phụ tùng, đồ sửa xe tôi để dưới gầm giường thì không ai lấy đi cả. Tôi biết ngay là những ông này chưa bao giờ sử dụng xe ô tô cả. Y như rằng, sau này xe nát, kinh doanh thua lỗ, phá sản… Sau ngày đổi mới, xe lại về tay tôi. Tôi lại là chủ xe như bây giờ…
Những người cầm súng giành chiến thắng trong đấu tranh bạo lực sau đó được làm chủ, được chỉ huy nhưng không có nghề ngỗng gì thì làm nát bét kinh tế đất nước như đã thấy. Muốn thành một ông chủ thì ít nhất phải trải qua kinh nghiệm, có mấy đời cha ông làm nghề đó chưa kể phải tích lũy tiền bạc, kinh nghiệm quản lý, trau dồi tay nghề… rồi truyền lại cho con cháu. Thế mà, đùng một cái cải tạo, gia sản giao cho mấy anh chân đất mắt toét vừa ở rừng ra quản lý và chỉ huy thì sự thể ra là như thế. Bi kịch của cuộc cách mạng vô sản, cách mạng công nông là như thế.
Tôi nhớ ngày giải phóng miền Nam, sau này ông Võ Văn Kiệt đề nghị gọi là ngày “thống nhất đất nước”. Nhiều chuyện khôi hài xảy ra ở những đầu tiếp quản. Có anh bộ đội miền Bắc, chưa một lần được được biết thành phố, anh ta theo đoàn quân chiến thắng vào thẳng Sài Gòn. Vô nhà vệ sinh anh nhìn thấy cái bồn cầu bằng sứ trắng lốp, lại có nước ở bên dưới bèn ra chợ mua cá lóc thả vào. Một lát không thấy cá đâu, anh kêu ầm lên là có ai lấy cắp cá của anh… anh không hề biết đó là cái hố xí vì xưa nay anh sống ở nông thôn miền Bắc, chưa thấy nó bao giờ. Một anh nông dân “chất phác” như thế mà giao cho làm cán bộ chỉ huy ở thành phố sau này thì bi kịch sẽ tiếp nối hài kịch là đương nhiên!
_____
25-5-2016
CHƯƠNG 5
Những chuyện kể của tướng Qua
Sở dĩ có chương này trong hồi ký của tôi vì người phương Tây có câu phương ngôn đầy ý nghĩa xã hội: Một nửa sự thật không phải là sự thật. Vì người ta mới chỉ viết có một nửa sự thật nên có những nhân vật có thời được dựng tượng, nhưng một thời gian không lâu, chỉ vài chục năm sau, thiên hạ lại kéo đổ thần tượng đó xuống. Nhưng hàng trăm năm nay, không có ai kéo tượng của Puskin, của Victor Hugo xuống cả. Lịch sử công bằng như thế.
Tướng Lê Hữu Qua, tên khai sinh là Lê Phú Cường (1914-2001), là chú ruột của tôi. Ông là nhân chứng sống của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 cho đến khi ông qua đời, 2001. Ông tham gia Việt Minh từ năm 1943, từng làm trưởng Ban trinh sát Sở Công an Bắc Bộ năm 1945, là người phá vụ án phố Ôn Như Hầu nổi tiếng sau Cách mạng tháng Tám. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, năm 1947 ông được cử làm Giám đốc Công an khu 11 (tức Công an Hà Nội). Khi Nha Công an trung ương chuyển lên Việt Bắc, ông được giao làm Phó Ty Trật tự tư pháp. Đến tháng 3 năm 1954 ông được cử đi bảo vệ đoàn đại biểu Việt Nam do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi dự hội nghị Genève tại Thụy Sĩ. Khi hội nghị kết thúc, ông được cử tham gia đoàn của chính phủ đi công tác tại Ý, Ai Cập, Ấn Độ, Miến Điện, Hồng Kông. Về Việt Nam ông được điều về Hà Nội gấp để bảo vệ Hồ Chủ tịch và ông Phạm Văn Đồng trong cuộc gặp đại diện Cộng hòa Pháp Sainteny tại Phủ Chủ tịch ngay sau giải phóng thủ đô. Năm 1956, ông làm Phó Giám đốc Vụ Trị an Dân cảnh. Đến tháng 5/1962 ông được chính phủ cử làm Cục trưởng Cục Cảnh sát Nhân dân với quân hàm thượng tá cảnh sát và giữ chức vụ này cho đến năm 1967. Ông là người xây dựng lực lượng cảnh sát nhân dân từ ngày đầu ấy. Sau thời gian đi học trường Nguyễn Ái Quốc về, ông giữ chức Cục trưởng Cục Quản lý trại giam cho đến năm nghỉ hưu 1980. Thời gian làm Cục trưởng Cục quản lý trại giam ông phải đảm nhận nhiều sĩ quan cấp tướng, cấp tá và quan chức cao cấp của chính quyền Sài Gòn ra Bắc cải tạo, cũng như các trại cải tạo khác ở toàn quốc. Ngày 18/4/1977 ông được Chủ tịch Tôn Đức Thắng phong hàm Thiếu tướng công an. Bạn đọc chỉ cần gõ vào google mấy chữ “Thiếu tướng Lê Hữu Qua và những chiến công…” là có ngay bài viết cùng nhan đề trên báo Công an Nhân dân xuân Đinh Hợi 2007 để được biết về ông. Khi ông mất, báo Nhân dân số ra ngày Chủ nhật 21/1/2001 đã đăng ở đầu trang 8 tin buồn, nguyên văn: Đảng ủy Công an Trung ương Bộ Công an; Đảng ủy UBND phường Hàng Mã, Q. Hoàn Kiếm Hà Nội và gia đình thương tiếc báo tin đồng chí Thiếu tướng Lê Hữu Qua, sinh năm 1914, quê quán phường Phúc xá, Q. Ba Đình Hà Nội; Trú quán 28 Hàng Rươi phường Hàng Mã, Q. Hoàn Kiếm Hà Nội; Tham gia cách mạng năm 1943, vào Đảng CSVN năm 1945; nguyên Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng Bộ Công an, đã về hưu. Huân chương độc lập hạng ba, huân chương quân công hạng nhất, huân chương kháng chiến hạng hai, huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất, huy chương vì thế hệ trẻ, huy chương vì sự nghiệp giáo dục, kỷ niệm chương của Bộ Nội vụ Cu Ba và nhiều huân chương khác, huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, đã từ trần hồi 4g 10 phút ngày 20/1/2001 tạ bệnh viện Hữu Nghị. Lễ viếng bắt đầu lúc 8g ngày 22/1 tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng (39 Trần Khánh Dư Hà Nội). Lễ truy điệu lúc 12g cùng ngày, an táng tại nghĩa trang xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm TP Hà Nội.
Một người nằm trong ngành an ninh và giữ nhiều trọng trách như thế nên ông biết nhiều sự thật. Trong những lúc vui buồn dài theo năm tháng, ông đã kể cho thằng cháu ruột của mình – đích tôn của dòng họ Lê Phú – những sự thật đó một cách vô tư. Những câu chuyện của ông không có lớp lang gì cả, nhân sự việc này, ông kể câu chuyện có liên quan. Lúc nghe ông kể, tôi cũng không có ý thức phải ghi lại để sau này chép “sử” như nhà báo Huy Đức đã viết “Bên thắng cuộc”. Nhưng tôi nhận thấy cần phải viết lại những điều tướng Qua đã kể, để “một nửa sự thật” mà người đời không biết đến, hoặc người biết cố tình ém nhẹm đi, rồi lịch sử bị chôn vùi.
1. Chuyện về ông bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn
Gộp những gì tướng Qua nhắc đến thì đây là một ông quan liêu nặng, dốt nát nhưng hay khoe mẽ, ích kỷ và dối trá, thích cấp dưới tâng bốc mình, ghét người trung thực, đặc biệt là ghét trí thức. Ông đã loại bỏ trí thức ra khỏi guồng máy công an. Vợ ông là một người tham lam vô độ, cái gì vơ được là vơ… Chưa bao giờ tôi thấy tướng Qua gọi tên hay chức vụ Bộ trưởng đối với Trần Quốc Hoàn. Ông gọi vị Bộ trưởng này bằng tên H lưu manh! Không nhân nhượng gì cả. Ông gọi tắt chữ Hoàn bằng âm H (hát). Lần đầu tiên tôi nghe ông gọi thế, và mãi sau này vẫn gọi thế. Nhiều lúc tôi thấy thương ông chú tôi, suốt đời phải làm việc với một vị thủ trưởng như thế. Cũng nhiều lúc tôi thấy giận ông vì sao không thể… bỏ mà đi, không làm việc ở Bộ Công an nữa. Nhưng sau này gặp nhà văn Tuấn Vinh, chuyên viết truyện về đề tài công an, cùng công tác ở Đài Tiếng nói Việt Nam với tôi, biết tôi là cháu tướng Qua, nên đã tặng tôi tập sách “Bão táp mùa thu” của NXB Công an nhân dân 1995 gồm các truyện ký về sự trưởng thành của công an thủ đô nhân 50 năm thành lập ngành công an nhân dân của nhiều tác giả. Trong bài “Những ngày đầu” hồi ký của Lê Hữu Qua do nhà văn Mai Ngữ ghi lại, trong hơn 30 trang hồi ký đó có đoạn: “Anh em chúng tôi đa số là lớp thanh niên mới lớn, nhiều cậu lúc ấy chưa hề tỏ tình với cô gái nào là cách mạng đến. Nếu gọi là mối tình đầu của người con trai thì cách mạng là mối tình đầu của họ… một tình yêu chung thủy và sắt son, mặc dù sau bao nhiêu năm có nhiều điều làm ta bực bội. Có nhiều kẻ mang danh cách mạng làm chuyện vô lương, nhưng nếu có ai chống lại cách mạng thì chúng tôi không chịu nổi…”.
Càng ngẫm tôi càng thương chú tôi, một thanh niên Hà Nội đẹp trai giỏi võ nghệ, giỏi bắn súng, giỏi lái xe hơi, nói thạo tiếng Pháp và… chỉ có “một mối tình đầu” là cách mạng và suốt đời chung thủy với mối tình đó nên ông không thể từ bỏ được. Ông không thể như Sartre “đi tìm niềm trung thành mới”. Đầu năm 60, tôi đến Bộ Công An chơi với chú tôi vì nhà ông ở ngay trong cơ quan Bộ, đi vô phải qua vọng gác. Ông ở trong một căn phòng nhỏ ở trên tầng lầu. Hai vợ chồng chỉ có một phòng cho tất cả mọi sinh hoạt. Tôi liếc nhìn bốn bề… Hiểu ý tôi, tướng Qua chỉ tay xuống căn biệt thự rất sang trọng dưới cửa sổ và nói: Tên H lưu manh này chỉ biết hắn thôi. Sau ngày giải phóng thủ đô, hắn chiếm ngay ngôi biệt thự này (nằm trên đường Trần Bình Trọng, một phía của biệt thự giáp đại lộ Trần Hưng Đạo, phía đối diện là Bộ Công an, chiếm cả dãy phố Trần Bình Trọng). Tất cả các cán bộ cao cấp khác, hắn bắt ở trong cơ quan Bộ với lý do “bảo vệ cán bộ”. Nhiều ngôi nhà quanh hồ Hale, chủ nhân di cư vô Nam, anh em xin ra ở đó H cũng không cho. Sau này lên thăm chú tôi nhiều lần, tôi mới biết đối diện phòng ông là phòng của Thứ trưởng Viễn Chi, sát đó là phòng của gia đình ông Nguyễn Công Tài, Cục trưởng. Vậy là hai vị cục trưởng và một vị thứ trưởng phải ở chung một tầng lầu chật hẹp, đi chung cầu thang, mọi tiện nghi sinh hoạt khác đều ở tầng trệt công cộng. Ông Viễn Chi có đứa con bị tật, ông phải đưa người bố đẻ ở quê lên để trông cháu. Tất tật chui rúc trong một căn phòng. Cụ thân sinh ra ông Viễn Chi rất đẹp lão, trông như một ông tiên. Một lần tôi sang chơi với cụ lúc mọi người đi vắng, cụ còn đọc thơ cho tôi nghe. Cụ lấy bút danh là Dã Tiên (ông tiên nơi thôn dã). Cụ than phiền với tôi phải rời quê ra đây, ở căn phòng chật hẹp này, cụ buồn lắm. Nhưng vì “thương anh Chi” nên cụ phải ở. Nói chuyện với cụ, tôi thấy đây là một ông già rất thông thái. Cụ thấy tôi đã 20 tuổi nhưng gầy yếu cụ khuyên tôi một vài năm nữa phải lấy vợ vì luật âm dương phải hài hòa!!! Một ông già như ông Dã Tiên phải được sống ở nơi non xanh nước biếc mà lại bị cầm tù ở cái gác ấy thì thật là đáng trách. Một lần, cũng do vô tình, tôi được một vị trung niên rất đẹp tướng, cao to, mặt mũi sáng sủa, là hàng xóm của tướng Qua kêu tôi sang nhà nhờ khiêng một cái giường cá nhân. Tôi thấy nhà ông ấy có nhiều sách lại có hai cái điện thọai mắc ở đầu giường, trong khi tướng Qua chỉ có một điện thoại. Tôi hỏi tướng Qua ông ấy là ai mà oai vậy? Tướng Qua cười bảo tôi, cháu học văn mà không biết, ông ấy là ông Tài con nhà văn Nguyễn Công Hoan đó. Cái thế giới nhà tập thể nó thế. Ai có ở nhà tập thể do cơ quan cấp mới thấy chán chường. Đã cả ngày nhìn thấy nhau ở cơ quan, đến khi về đến nhà riêng ra vào lại phải gặp những gương mặt đó. Hợp nhau đã vậy còn nếu không thì chỉ mong dọn đi chỗ khác. Có lẽ vì chán ở tập thể nên chú tôi tìm cách dọn ra ở bên ngoài. Di chuyển đôi lần rồi cuối cùng ông ở 28 phố Hàng Rươi cho đến cuối đời. Lý do về ở phố, theo ông nói với tôi là “thích ở gần dân”. Nhưng ngôi nhà 28 Hàng Rươi cũng vô cùng chật hẹp. Nhà hình ống, bề ngang chỉ hơn 2 m, cầu thang lên dựng đứng. Đi ra đi vào phải lách, vậy mà ông đã ở đấy cho đến lúc ra đi… Có lần, một người ở quê ra chơi, thấy ngôi nhà bé quá, khi về ông ta nhỡ miệng than với mọi người: Nhà ông tướng gì mà như cái chuồng chó! Sau này nghe được câu nói đó, tướng Qua buồn lắm!
Cả một đời ngang dọc, đánh đông dẹp bắc chiến tích đầy mình mà đến cuối đời chú tôi vẫn phải ở trong căn nhà “như cái chuồng chó” ấy thật là bất công. Bây giờ, mỗi khi vô một căn nhà, chủ nhân chỉ là viên sĩ quan cấp tá thôi nhưng nhà họ nguy nga như một lâu đài. Tôi mới ngẫm ra rằng, như một nhà hiền triết đã nói: “Nghĩ ra một chủ nghĩa bao giờ cũng là các bậc thiên tài. Thực hiện cái chủ nghĩa đó bao giờ cũng là những người cuồng tín và hưởng thành quả của chủ nghĩa đó thì bao giờ cũng là bọn lưu manh”.
Nói về tính ích kỷ và sự dối trá của Trần Quốc Hoàn tướng Qua có lần kể, dưới bàn làm việc của tên H là một cái hầm. Chỉ cần bấm nút một cái là cả bàn giấy của H thụt xuống hầm sâu. Căn hầm có thể tránh được bom nguyên tử. Bên phố Yết Kiêu gần đấy, dưới đất là cả một căn hầm rộng mênh mông. Tên H rất sợ chết, chỉ lo bảo toàn tính mạng cho riêng hắn.
Sau 1975, với sự việc bắt đi cải tạo tất cả sĩ quan tướng lĩnh thuộc chế độ Sài Gòn cũ (thực chất là bắt đi tù vô thời hạn), tướng Qua lên án Trần Quốc Hoàn rất gay gắt. Dĩ nhiên việc này không chỉ riêng ông Hoàn chịu trách nhiệm, nhưng tướng Qua có nhiều bất đồng với các chủ trương của Hoàn trong việc này. Ông nói: Sau 30/4/1975 việc đầu tiên là tên H lưu manh lùa cán bộ vào Nam bắt tù. Y vô Sài Gòn ngồi khoanh chân vòng tròn trên một cái sập, luôn mồm thúc giục phải gấp làm hồ sơ để bắt tù. Trông y ngồi như một tên địa chủ!
Bây giờ bạn đọc chỉ cần đánh vào google ba chữ “Trần Quốc Hoàn” là được đọc ngay thành tích bất hảo của Hoàn. Được biết về vụ án cô Nông Thị Xuân năm 1957. Trước đó Trần Quốc Hoàn đã hiếp dâm cô Nông Thị Xuân ở số nhà 66 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm rồi lập mưu giết hại cô như thế nào. Trong cuốn “Đêm giữa ban ngày” nhà văn Vũ Thư Hiên cũng viết trên giấy trắng mực đen vụ án kinh tởm ấy. Vũ Thư Hiên còn nói rõ trong “Đêm giữa ban ngày” là, cán bộ từ cấp vụ trở lên ở Bộ Công an đều biết vụ án này. Vì thế, tướng Qua mới luôn gọi Trần Quốc Hoàn là “thằng H lưu manh” khi nói chuyện với tôi. Còn nhà văn XĐ quê ở Nghệ An thì nói với tôi rằng, nếu giết hết được cả làng tôi thì thằng Hoàn nó cũng giết, vì cả làng đều biết nó là thằng ăn cắp ở chợ làng trước kia!
Vì thế, mỗi lần về Hà Nội, đi qua con đường mới mở to đẹp ở quận Cầu Giấy mang tên Trần Quốc Hoàn, tôi không khỏi ngậm ngùi đau xót cho số phận của dân tộc mình. Rồi có ngày tấm biển đó phải được giật xuống. Tôi tin như thế.
2. Chuyện về Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Nhân vật thứ hai được tướng Qua luôn nhắc đến là Phạm Văn Đồng.
Dưới mắt tướng Qua thì Phạm Văn Đồng là con người chủ quan, bốc đồng và rất vô tích sự. Ông kể: Vừa mới giải phóng thủ đô, tôi phải bảo vệ cuộc họp quan trọng của đại diện Cộng hòa Pháp với chính phủ ta. Tôi phải đích thân lái xe đến chỗ Sainteny để chở hắn sang họp với Phạm Văn Đồng. Sainteny yêu cầu phải có xe của Bộ Công an ta sang đón thì hắn mới đi, vì trước đó trong ngày CM tháng Tám mới thành công, đã có lần xe của hắn bị bắn. Hắn sợ! Cuộc họp kết thúc, Sainteny chưa bước ra khỏi phòng họp thì đã thấy tiếng cười lớn Ha! Ha! Ha! của Phạm Văn Đồng rồi tất cả cười theo. Thấy thế Sainteny quay ngoắt lại, có vẻ rất ngạc nhiên và khó chịu. Sau khi đưa Sainteny về rồi, tôi quay lại hỏi ông Lê Thanh Nghị: vì sao khi Sainteny chưa ra khỏi phòng mà ông Đồng và mọi người đã cười to thế, khiến hắn rất khó chịu, tôi thấy làm như thế là bất lịch sự… ông Nghị cười nói: Sainteny sau cùng có đề nghị ta, nếu chính phủ Việt Nam có cần giúp đỡ, bồi hoàn chiến tranh của chính phủ Pháp thì xin các ông cứ đề đạt, tôi sẽ là người tích cực trong công việc này… Nghe Sainteny nói, anh Đồng không trả lời, khi y quay ra thì anh Đồng nói: Mới đánh cho thua vãi cứt mà đã lên mặt! Rồi anh ấy cười lớn, mọi người cười theo!
Kể xong câu chuyện trên, tướng Qua kết luận với tôi: Phạm Văn Đồng là thế đó, chỉ làm hại đất nước!
Một lần khác, tướng Qua kể tiếp: Lần này thì chính Phạm Văn Đồng gọi tôi lên để trình bày về cái vụ thế giới nó chỉ trích ta về nhân quyền trong vụ bắt tù nhân là tướng lĩnh ãi quan Sài Gòn đi cải tạo vô kỳ hạn sau 1975. Với tư cách Cục trưởng Cục Trại giam, tôi phải báo cáo thủ tướng chính phủ để còn biết đường mà trả lời các cuộc phỏng vấn của báo chí phương tây. Tôi chuẩn bị khá kỹ tài liệu để báo cáo. Gặp tôi, ông ta không thèm hỏi han một câu nào, chỉ ra hiệu, “Anh nói đi”! Tôi vừa báo cáo được vài câu thì đã thấy ông ta ngủ gật. Tôi phải vờ đặt cái tay xuống bàn thật mạnh để ông ta tỉnh dậy. Tôi lại báo cáo, ông ta lại ngủ gật. Lúc tỉnh dậy, ông nói, anh báo cáo lại đi tôi nghe chưa rõ. Tôi đứng dậy và nói thẳng vào mặt ông ta, anh có nghe đâu mà rõ… sau đó tôi quay gót về luôn. Ông ta cũng không nói gì cả. Chắc là để ngủ tiếp!!! Sau này tôi được nghe nhà báo TĐ ở báo Nhân dân kể, Phạm Văn Đồng chuyên hút thuốc phiện và chơi đĩ do Lê Đức Thọ cung cấp, vì thế hai cái môi thâm sì. Và Lê Đức Thọ bảo sao thì phải nghe vậy, không thì cắt nguồn thuốc phiện và gái! Tôi tin lời anh TĐ vì suy ra, người hút thuốc phiện hay ngủ gật, và điều tướng Qua nói là hoàn toàn đúng về cái sự ngủ gật của ông Thủ tướng lâu năm này.
____
28-5-2016
Những chuyện kể của tướng Qua (tiếp)
3/ Trường Chinh – Hồ Chí Minh
Người thứ ba mà tôi thấy tướng Qua hay nhắc đến là ông Trường Chinh. Khi nói về tính cẩn thận, tướng Qua kể: ông này (TC) cẩn thận chưa từng thấy, đo may quần áo cho ông rồi, chiến sỹ của tôi khi đem quần áo đến nhà thì phải chở theo một cái gương rất to. Ông mặc thử rồi đứng trước gương soi. Hai cảnh sát đứng sau lưng ông cầm cái gương để ông ngắm xem phía sau có “chuẩn” không. Chỉ cần cái tà áo phía sau hơi cong một chút là đem về may lại! Trên Tam Đảo, tôi đã bố trí một cảnh sát cắt tóc có nghề để phục vụ cán bộ cao cấp khi nghỉ mát cần cắt tóc. Đến Bác Hồ cũng từng để cậu này cắt tóc, cạo mặt cho. Vậy mà khi cần cắt tóc ở Tam Đảo, theo yêu cầu của ông Trường Chinh, chúng tôi phải đánh một cái xe chở cậu cắt tóc quen thuộc của ông từ Hà Nội lên để cắt tóc cho ngài! Nói xong, tướng Qua lắc đầu than: dictateur! (kẻ độc tài).
Người thứ tư mà tướng Qua hay nhắc tới là Hồ Chí Minh. Ông nhiều lần kể cho tôi câu chuyện, sau CM tháng Tám, bộ đội, công an, dân quân tự vệ, du kích ta “thèm” súng lắm. Ai cũng muốn mình có một khẩu súng để chuẩn bị đánh giặc, vì thế du kích ở Chèm thấy có một cái tầu của quân Tưởng ngược về phía Bắc tưởng là tầu chở vũ khí nên họ đánh úp. Té ra là tầu chở bọn Tưởng ốm về Tầu trị bệnh. Chót giết mất bọn này rồi, quân ta chuồn luôn. Nào ngờ một tên trốn thoát, nó về báo cáo cấp trên. Quân Tưởng hạ lệnh cho ta phải tìm cho bằng được số du kích này để xử. Được lệnh của Bác, tôi phải lên tận Chèm để bắt các vị này. Không khó lắm, chỉ cần hỏi chuyện ông già bán chuối ở đầu làng là ra hết. Bắt được mấy vị này rồi, tôi báo cáo Bác. Nhưng một số anh em bàn, lấy tù thường phạm “thế” vào mấy vị này. Nhưng tên Tầu Tưởng trong lúc nhốn nháo, nó nằm bẹp một xó nhớ mặt các vị đó, rồi nhẩy xuống sông trốn thoát. Nó nhận mặt tù nhân và không chịu. Bác rất than phiền. Ông cụ nói, quân đội cách mạng mới xây dựng mà đã vô kỷ luật thế này thì làm sao mà trưởng thành nổi. Ông cụ phân tích: quân Tưởng là đại diện cho Đồng minh, động vào quân Tưởng là chống lại Đồng minh, vì vậy không thể không xử vụ này được. Lệnh tử hình mấy vị này trước mặt quân Tưởng được ban hành. Trước khi bắn các vị đó, tôi cẩn thận gọi điện báo cáo Bác một lần nữa. Bác chỉ trả lời ngắn gọn: một là mất nước, hai là thi hành lệnh. Anh Nguyễn Văn Trân (bí thư thành ủy HN sau này – LPK) bắn một phát rồi run quá, nằm vật ra, mồ hôi vã ra như tắm. Tôi phải giằng lấy súng, xử nốt mấy vị còn lại bằng các viên đạn vào thái dương. Xong, tôi cũng choáng quá, như muốn ngã xuống đất. Nhưng không quên gọi điện cho Bác, báo cáo đã thi hành lệnh. Từ đầu dây bên kia tôi nghe rõ Bác nói, giọng xúc động: nhớ ghi tên các chú đó để sau này làm bằng liệt sỹ cho các chú ấy.
Mỗi lần kể lại cho tôi nghe câu chuyện này, tướng Qua đều rơm rớm nước mắt. Ông đốt thuốc liên tục. Câu chuyện thứ hai mà tướng Qua kể về ông Hồ là phải đem vàng chuộc Bác. Không hiểu vì lý do gì quân Tưởng mời Bác sang làm việc rồi giam ông cụ lại. Đã mấy ngày trôi qua, ở nhà ai cũng vô cùng lo lắng. Tôi được cử đi gặp ông cụ để nắm tình hình. Đến nơi tôi rất ngạc nhiên là thấy cụ ngồi bình thản hút thuốc như không có việc gì xẩy ra, sau đó bảo tôi: thế là mất toi cả tuần lễ vàng! Sau đó ta phải đem vàng để chuộc ông cụ về!
Một câu chuyện khác về ông Hồ rất “độc đáo”. Tướng Qua vui vẻ kể: mới độc lập mà ông cụ đã gọi tôi lên bảo: phải giữ phố Khâm Thiên lại cho Bác. Tôi không hiểu ý ra sao. Còn anh em thì muốn dẹp ngay cái phố cô đầu nổi tiếng ở Hà Nội này đi vì cách mạng đã thành công. Nhưng đến khi quân Tầu Tưởng ồ ạt kéo sang, đại diện cho quân Đồng minh ở miền Bắc để giải giáp quân Nhật thì Bác lại gọi tôi lên bảo: tối tối đưa các sỹ quan tướng lĩnh của quân Tưởng xuống đó chơi bời cho nó đỡ phá phách, gây sự với ta. Thế là chúng tôi hiểu. Nhưng hiềm một nỗi là, bọn quan tướng Tầu Tưởng khốn nạn lắm. Ban đêm chúng “tòm chát” ở Khâm Thiên, ban ngày chúng lại dẫn mấy con đào này đi ưỡn ẹo ở Hàng Ngang Hàng Đào, mấy con đĩ này chỉ vào cái vòng vàng, vòng bạc, đồ nữ trang nào là bọn tướng Tầu lại cướp không cho chúng. Đồng bào thưa kiện lên chúng tôi. Ai lại cách mạng rồi mà không bảo vệ được tài sản cho đồng bào thì còn ra làm sao. Thế là chúng tôi lại phải đến lột lại các đồ vàng bạc đó ở các con đĩ, dọa chúng còn làm thế nữa là “coi chừng mạng sống”, rồi đem trả lại cho đồng bào. Thế mà có con còn ngoan cố, vẫn không chừa… lấy rồi trả, trả rồi lại phải đi lấy lại, như đèn cù.
Nói về sự tiết kiệm, tướng Qua kể: đi công tác trong kháng chiến, chúng tôi phải nắm cơm mang theo. Đến giờ ăn, cậu cần vụ giở nắm cơm ra, cẩn thận cậu ta dùng dao ca-níp gọt vỏ nắm cơm đã bị cứng ở bên ngoài ra, để vào một góc tờ giấy. Gọt đến đâu thì ông cụ bỏ vào mồm nhai đến đó, thấy thế cậu ta từ đó không gọt vỏ cơm nữa. Riêng với cá nhân tướng Qua, có lần ông kể: tôi là dân Hà Nội, không quen đi chân đất nên lúc đi kháng chiến có mang theo một đôi “ghệt” cao cổ. Thấy tôi đi đôi giầy da của bọn police militaire Pháp, có cậu thưa với ông cụ: anh Qua đi kháng chiến mà còn mang thói tiểu tư sản, đi giầy cao cổ của thực dân Pháp! Ông cụ chỉ nói: thôi, chú ấy được việc là được. Còn bộ đồ kaki Mỹ của tôi mặc trên người cũng bị chỉ trích. Ông cụ lại nói: thứ vải ấy nó bền, cứ để chú ấy mặc!
Có lần tướng Qua cho tôi xem một tờ giấy nhỏ bằng bàn tay, đó là bức thư được đánh máy từ cái máy chữ xách tay, chữ nhỏ li ti. Trong thư ông Hồ chỉ thị cho tướng Qua ém quân ở một đoạn đường để bảo vệ cho thiếu tướng Văn Tiến Dũng đưa quân ta vượt sông. Dưới cùng ký tên Hồ Chí Minh, cũng là ba chữ đánh máy. Xem thư tôi mới biết hồi đó quân ta đã được phong hàm, và ông Văn Tiến Dũng là thiếu tướng. Lá thư đó được tướng Qua giữ cẩn thận trong một cuốn an-bum, ông bảo tôi: đây là précieux souvenir (kỷ niệm quý). Ngày ông đau nặng, chỉ còn nói được câu một. Tôi hỏi về từng người: Trường Chinh? Trả lời: dictateur. Phạm Văn Đồng? Trả lời: suốt đời làm hại người khác! Hồ Chí Minh? Trả lời: đâu cũng đi, cái gì cũng biết! Những lời nhận xét của ông đương nhiên chỉ là lời một võ tướng. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ thấy ông “phê phán” ông Hồ Chí Minh cả. Duy chỉ có một lần, sau ngày ông cụ mất (2.9.1969), tôi lên chơi, ông hỏi: cháu có biết ai là người thương Bác Hồ nhất không? Tôi còn chưa biết trả lời thế nào thì ông nói: mấy hiệu nhiếp ảnh là họ thương cụ Hồ nhất vì thức suốt đêm để in những tấm ảnh bốn ông đứng gác hòm kính pha lê… để bán, mắt cậu nào cũng đỏ hoe!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét